Vào thời Đức Phật. Trong kinh thành Bārāṇasī có đôi vợ chồng, người
chồng tên là Nandiya, vợ là nàng Revatī. Thanh niên Nandiya là người có tâm tịnh
tín nơi Tam-bảo, thường xuyên bố thí cúng dường đến Chư Tỳ khưu Tăng và kẻ ăn
xin, còn cô vợ trái lại không có niềm tin nơi Tam-bảo, cũng không có tâm hoan hỷ
trong việc bố thí hạnh. Do mãnh lực bố thí mà Nandiya thường làm, nơi Đạo-lợi
Thiên cung đã hiện khởi tòa cung điện
là nơi dành cho chàng, sau khi mệnh chung ở cõi người, Nandiya được sanh về Đạo-lợi,
ngự trong Thiên cung ấy.
Sau khi chồng mất, nàng Revati không còn giữ việc bố thí ấy như
thuở chồng nàng vẫn làm khi tại tiền. Những vị thọ thí vẫn đến thường, nhưng đã
bị nàng xua đuổi, sĩ nhục (Chư Tăng Tỳ-kheo) và những người ăn xin mà thường đến
thọ thí.
Sau khi kết thúc đời sống, nàng bị lũ ngạ quỷ kéo nàng đi xuống địa
ngục Ussada - đa khổ, nàng trông thấy quỉ sứ ở nơi ấy bắt, đánh đập tội nhân vô
cùng thảm khóc. Rồi nàng Revatī bị ném xuống Địa ngục ấy, bị nhóm quỉ sứ bắt
đánh đập, nàng đã kêu la, rên xiết thảm khóc. Nghe những lời than van kêu gào của
nàng Revatī, nhóm quỉ sứ thay vì thương cảm nàng, trái lại đã mắng nhiếc nàng rằng:
Khi còn làm người, tại sao ngươi lại không biết ghê sợ tội lỗi, mà
còn tạo ác hạnh đối với Chư Tỳ khưu Tăng và những kẻ ăn xin nghèo khổ, là người
hằng thọ thí từ thanh niên Nandiya chồng của ngươi. Ngươi đã từ bỏ con đường tốt
mà Nandiya đã làm, nay nhận lấy ác quả đã tạo tương xứng, thì việc rên la của
người chẳng có lợi ích chi cho ngươi đâu.
Sau khi nói như thế xong, nhóm quỉ sứ nắm lấy hai chân của nàng dỡ
lên cho đầu chỏng xuống, lôi xuống Địa ngục Đa khổ để tiếp tục thọ khổ tại nơi ấy.
Như trong Vimānavatthu có nêu rằng:
Những người phải bị đọa trong Địa đại ngục, vì những người này khi
còn ở nhân loại, đã bức hại, lăng nhục, sĩ mạ các bậc sa môn, Bà la môn.
Như trong chú giải bổn sanh có nêu rằng:
"Mahānirayesu kira yebhuyyena dhammika samaṇabrahmaṇesu
natāparādhā paccati".
Các chúng sanh bị đọa trong Đại địa ngục hay trong đa khổ địa ngục,
việc bị đọa trong các địa ngục ấy bất định, có người chỉ đọa 7 ngày, có người
suốt cả kiếp (kappa). Đó là do ác nghiệp của chúng sanh ấy. Như trong Maṇisāramañjūsāṭīkā
có nêu rằng:
"Thật vậy, thọ lượng
trong các Địa ngục, chính là do nghiệp".
→ “Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không có lòng tin, không có
lòng hổ thẹn - không có lòng sợ hãi với tội lỗi, biếng nhác, ác tuệ. Thành tựu
với năm pháp này, này các Tỷ-kheo, ngay trong hiện tại sống đau khổ, với tổn hại,
với ưu não, với nhiệt não; sau khi thân hoại mạng chung, được chờ đợi là ác
thú.”
* Tàm: Hổ thẹn, xấu hổ với tội lỗi.
Quý: Ghê sợ, sợ hãi với
tội lỗi.
0 comments:
Post a Comment