Friday, May 13, 2016

Giáo dục trong gia đình - ĐĐ Dhammananda

Pháp Hỷ - Dhammanandā

Nhiều bậc cha mẹ có quan niệm sai lầm rằng con cái là sở hữu của họ, và họ là những người có toàn quyền quyết định vê số phận con cái mình trong thời gian chúng lệ thuộc vào cha mẹ. Trên một phương diện nào đó quan niệm, lối suy nghĩ và cách cư xử này đúng một phần, con cái là sản phẩm của cha mẹ. Về mặt vật chất, con cái thừa hưởng ở cha mẹ gen di truyền như là dòng dõi huyết thống. Cơ thể của con cái là được sanh ra từ cha mẹ; chín tháng mười ngày trong bụng mẹ cũng có những ảnh hưởng rất quyết định về mặt thể chất cũng như tinh thần của thai nhi. Nếu người mẹ không được ăn uống đầy đủ, khi đau ốm bệnh hoạn không được săn sóc thuốc men đúng lúc thì đứa bé sinh ra sẽ bị suy dinh dưỡng bẩm sinh và suốt cuộc đời nó sẽ phải chịu đựng những khổ sở do một cơ thể yếu đuối mang lại.

Nếu đời sống tinh thần của người mẹ thường bị khủng bố và bức bách, lo âu phiền muộn thì đứa trẻ sinh ra cũng yếu đuối, kém tự tin hay tinh thần bất định. Suốt quãng đời ấu thơ khi đứa trẻ sống gần như hoàn toàn tuỳ thuộc vào cha mẹ cũng là thời kỳ rất quan trọng trong sự hình thành và phát triển thể chất cũng như nhân cách của đứa trẻ. Nếu hiểu được tầm quan trọng này, các bậc làm cha làm mẹ sẽ phải có trách nhiệm hơn về sản phẩm mà họ đã sáng tạo, đó là con cái họ.

Có những bậc làm cha làm mẹ vì ít được học hỏi và thiếu kinh nghiệm nên rất bất cẩn. Họ thường chỉ phản ứng theo bản năng, nghĩa là chỉ tuân theo tiếng gọi của tự nhiên mà không suy nghĩ hay có sự chuẩn bị nào. Khi đứa trẻ được sinh ra thì cha mẹ chúng chỉ cố lo cho con đủ ăn, đủ mặc (với ý nghĩ rằng như vậy cũng đã tốt lắm rồi!), gửi chúng đến trường rồi phó mặc toàn bộ việc giáo dục cho nhà trường. Đây là một sai lầm rất căn bản vì thời gian ở trường của bé thường ít hơn thời gian ở nhà. Nếu các bậc cha mẹ biết rằng mọi lời ăn tiếng nói, cử chỉ và cách cư xử của mình đều để lại những ấn tượng đầu tiên và sâu đậm nhất trong cuộc đời con họ thì có lẽ họ đã không dám bất cẩn đến như vậy.


Đức Phật nói cha mẹ là những thầy cô đầu tiên của trẻ. Họ dạy con những tiếng bập bẹ đầu tiên, những bước đi đầu tiên; cũng chính trong giai đoạn này họ cho con những ý niệm sơ khởi về những mối quan hệ của trẻ với những thành viên khác trong gia đình: ai là cha, ai là mẹ, rồi ông bà, nội, ngoại, anh chị, cô dì, thím bác,…Những ý niệm sơ khởi này của bé về các mối quan hệ của bé với các thành viên khác trong gia đình đi kèm với ngôn ngữ và cử chỉ mà bé nên biểu hiện với từng người; những gì thì đươc khuyến khích và những gì thì bị ngăn chặn, đây là những ý niệm đầu tiên của trẻ về cách cư xử. Trẻ cũng được dạy rằng ông bà cha mẹ luôn yêu thương và bảo vệ bé, rằng bé ngoan ngoãn và vâng lời.

...

Wednesday, May 11, 2016

Tàm - Quý

Vào thời Đức Phật. Trong kinh thành Bārāṇasī có đôi vợ chồng, người chồng tên là Nandiya, vợ là nàng Revatī. Thanh niên Nandiya là người có tâm tịnh tín nơi Tam-bảo, thường xuyên bố thí cúng dường đến Chư Tỳ khưu Tăng và kẻ ăn xin, còn cô vợ trái lại không có niềm tin nơi Tam-bảo, cũng không có tâm hoan hỷ trong việc bố thí hạnh. Do mãnh lực bố thí mà Nandiya thường làm, nơi Đạo-lợi Thiên cung đã hiện khởi tòa cung điện là nơi dành cho chàng, sau khi mệnh chung ở cõi người, Nandiya được sanh về Đạo-lợi, ngự trong Thiên cung ấy.
Sau khi chồng mất, nàng Revati không còn giữ việc bố thí ấy như thuở chồng nàng vẫn làm khi tại tiền. Những vị thọ thí vẫn đến thường, nhưng đã bị nàng xua đuổi, sĩ nhục (Chư Tăng Tỳ-kheo) và những người ăn xin mà thường đến thọ thí.
Sau khi kết thúc đời sống, nàng bị lũ ngạ quỷ kéo nàng đi xuống địa ngục Ussada - đa khổ, nàng trông thấy quỉ sứ ở nơi ấy bắt, đánh đập tội nhân vô cùng thảm khóc. Rồi nàng Revatī bị ném xuống Địa ngục ấy, bị nhóm quỉ sứ bắt đánh đập, nàng đã kêu la, rên xiết thảm khóc. Nghe những lời than van kêu gào của nàng Revatī, nhóm quỉ sứ thay vì thương cảm nàng, trái lại đã mắng nhiếc nàng rằng:
Khi còn làm người, tại sao ngươi lại không biết ghê sợ tội lỗi, mà còn tạo ác hạnh đối với Chư Tỳ khưu Tăng và những kẻ ăn xin nghèo khổ, là người hằng thọ thí từ thanh niên Nandiya chồng của ngươi. Ngươi đã từ bỏ con đường tốt mà Nandiya đã làm, nay nhận lấy ác quả đã tạo tương xứng, thì việc rên la của người chẳng có lợi ích chi cho ngươi đâu.
Sau khi nói như thế xong, nhóm quỉ sứ nắm lấy hai chân của nàng dỡ lên cho đầu chỏng xuống, lôi xuống Địa ngục Đa khổ để tiếp tục thọ khổ tại nơi ấy. Như trong Vimānavatthu có nêu rằng:
Những người phải bị đọa trong Địa đại ngục, vì những người này khi còn ở nhân loại, đã bức hại, lăng nhục, sĩ mạ các bậc sa môn, Bà la môn.
Như trong chú giải bổn sanh có nêu rằng:
"Mahānirayesu kira yebhuyyena dhammika samaṇabrahmaṇesu natāparādhā paccati".
Các chúng sanh bị đọa trong Đại địa ngục hay trong đa khổ địa ngục, việc bị đọa trong các địa ngục ấy bất định, có người chỉ đọa 7 ngày, có người suốt cả kiếp (kappa). Đó là do ác nghiệp của chúng sanh ấy. Như trong Maṇisāramañjūsāṭīkā có nêu rằng:

"Thật vậy, thọ lượng trong các Địa ngục, chính là do nghiệp".

→ “Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không có lòng tin, không có lòng hổ thẹn - không có lòng sợ hãi với tội lỗi, biếng nhác, ác tuệ. Thành tựu với năm pháp này, này các Tỷ-kheo, ngay trong hiện tại sống đau khổ, với tổn hại, với ưu não, với nhiệt não; sau khi thân hoại mạng chung, được chờ đợi là ác thú.

* Tàm: Hổ thẹn, xấu hổ với tội lỗi.

   Quý: Ghê sợ, sợ hãi với tội lỗi.

Wednesday, April 13, 2016

Một Số Câu Hỏi Về Đức Phật (Part 4)



57. Bát Chánh Đạo ấy là gì?
Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tin Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định

58. Bát Chánh Đạo ấy được chia ra làm 3 nhóm)
Giới – Định – Tuệ

59. Điều nào liên hệ đến Định?
Chánh Tin Tấn (sự nổ lực cao nhất), Chánh Niệm (Chú tâm cao nhất), Chánh Định (tập trung cao nhất)

60. Điều nào liên hệ đến Tuệ?
Chánh Kiến (Hiểu biết cao nhất), Chánh Tư Duy (Có nhìn chân chánh nhất) 

61. Nhóm nào liên hệ đến Giới
Chánh Ngữ (Lời nói chân chánh nhất), Chánh Nghiệp (Những hành động trong sạch nhất), Chánh Mạng (nuôi sống mạng mình chân chánh nhất)

62. Nghiệp là gì?
Nghiệp được hiểu là luật của nguyên nhân và ảnh hưởng (Chúng ta sẽ là tất cả những gì chúng ta nghĩ)

63. Niết Bàn có nghĩa là gì?
Là sự chứng đạt Chân Lý [Tứ Diệu Đế]

64. Một tiêu cao nhất mà chúng ta nổ lực là gì?
Chúng ta phải cố gắng thành tựu cho được Giải Thoát

65. Giải Thoát được hiểu là gì?
Là hoàn toàn thoát khỏi Vô Minh,  thấu đạt được Tứ Diệu Đế

66. Hiểu biết và nhận thức sâu được Chân Lý là đủ phải không?
Không phải vậy,  Hiểu biết chỉ đưa đến hành động đúng và nhận thức được điền bên trong mình mà thôi

67. Đạo Phật là một tôn giáo khoa học và không có niềm tin suông phải không?
Phật Giáo không hoàn toàn phụ thuộc vào khoa học để tìm ra chân lý. Chúng ta nên vui mừng rằng có rất nhiều lời dạy cổ xưa đã vượt lên sự thẩm định của khoa học, Đó là một sự thật hiển nhiên.

68. Đạo Phật là một tôn giáo hòa hợp?
Vâng, Vì Phật Giáo tôn trọng mọi ý kiến đúng đắng của mỗi người, như với Tôn Giáo thì nó hoàn toàn khác thế

69. Cách tốt nhất đề miêu tả Phật Giáo với vài từ là gì?
Phật Giáo là sự hướng dẫn lối sống để đạt được lợi ít cao nhất trong cuộc sống này

70. Có thể xảy ra chăng nếu một người hiểu Giáo Lý của Đức Phật và làm theo lời dạy của tôn giáo khác?
Điều đó khó xảy ra. Bởi vì Giáo Pháp của Phật trả lời hoàn toàn những câu hỏi sâu xa trong tâm trí chúng ta và cho ta những trạng thái an lạc cao thượng nhất trong tâm hồn

Monday, April 11, 2016

Một Số Câu Hỏi Về Đức Phật (Part 3)



41. Tôi nhớ rằng đã nghe Ngài nói đến tôn giáo của Đức Phật có nhiều vị Phật phải không?
Vâng, Si-đạt-ta là vị Phật thứ tư ở Ấn Độ hiện đại. Ngài là một con người lịch sử, tên tộc là Sĩ-đạt-ta Cồ Đàm)

42. 3 lời hướng dẫn mà một người Phật Tử nên theo là gì và của ai?
Đó là Đức Phật, Giới Luật và Tăng Đoàn

43. Chúng ta hiểu nghĩa gì với điều này?

Có nghĩa là chúng ta phải tôn kính Đức Phật như vị Thầy trí tuệ vô song, Chúng ta phải tin tưởng Giới Luật chứa đựng những quy tắt của Sự Thật và Công Bằng, và Tăng Đoàn là người đại diện hướng dẫn những Giới Luật đó

44. Phật Giáo so sánh với những tôn giáo khác với số lượng người như thế nào?
Những người theo Đức Phật đông hơn nhiều lần số lượng của những bậc Thầy tôn giáo khác


45. Ước lượng khoảng bao nhiêu?
Khoảng 500 triệu, 1/3  dân số trên thế giới

46. Đã từng có những cuộc chiến tranh diễn ra và máu nhân loài đổ xuống vì sự chia gẽ Luật của Đức Phật chưa?
Điều đó thật khó có thể tưởng tượng, Chẳng bao giờ có một giọt máu nào rơi vì Đạo Phật cả

47. Ngài có thể chứng minh điều gì cho con đường tuyệt hảo (Giáo Pháp) được truyền bá?
Bởi vì y cứ trên Chân Lý, những lời dạy luân lý (luôn đúng) ấy đủ để minh chứng cho tất cả những điều cần thiết

48. Đức Phật đã truyền bá giáo Pháp ấy thế nào?
Trong suốt 45 năm trường, Đức Phật đi khắp xứ Ấn Độ để thuyết giảng về Giới Luật và gửi cho những đệ tử trí tuệ bậc nhất thực hiện những việc tương tự đó, vì lợi ích của cõi Trời và loài người

49. Đạo Phật ra đời sớm hơn Thiên Chúa Giáo?
Yes, about 500 years older. (Vâng, khoảng hơn 500 năm

50. Dấu hiệu nào để ta biết về sự truyền thừa Giáo Pháp ấy?


(a) Sự dịch thuật của những áng văn chương xuất hiện trên Tạp Trí, Những Bài Viết và Những Tờ Báo Thông Tin hay như những quyển sách viết về Phật Giáo.

(b) Những nhà thuyết trình là Phật Tử hay không phải Phật Tử công khai nói về Phật Giáo ở Phương Tây


(c) Những Hội Người Phật Tử được tìm thấy hầu hết ở Phương Tây


51. Có ý nghĩa gì khi nói về việc Đức Phật đã đạt được Giải Thoát?
Chúng ta hiển nhiên thấy rõ về Chân Lý, có tên là, “Toàn bộ cuộc sống được xem là đau khổ”, “Đó là nguyên nhân của đau khổ”, “ Sự diệt đau khổ”. “Con đường đưa đến chấm dứt đau khổ”

52. Bốn sự thật ấy được gọi là gì?
Chúng được gọi là “Bốn Chân Lý Cao Thượng” hay là “Tứ Diệu Đế”, “Tứ Thánh Đế”

53. Đức Phật muốn nói gì về ý nghĩa của “Cuộc sống hoàn toàn là đau khổ?”
Ngài muốn nói đến, tất cả những bản chất hiện hữu điều là Đau Khổ”

54. Nguyên nhân của Đau Khổ là gì?
Đó là Thiếu Hiểu Biết (Vô Minh) và Tham Ái

55 “Diệt Khổ” có ý nghĩa là gì?
Đó là Niết Bàn

56. Còn “Con Đường đưa đến diệt khổ”?
Đó là Bát Chánh Đạo

Tuesday, April 5, 2016

Một Số Câu Hỏi Về Đức Phật (Part 2)



25. Có khó khăn cho hoàng tử khi rời bỏ?
Đúng vậy. Bởi vì Hoàng tử có một người vợ thật xinh đẹp và một đứa con nhỏ rất đáng yêu

26. Vợ của ngài có cố ngăn cản hay không?
Không, Bởi vì Hoàng tử rời khỏi giữ đêm mà không nói gì với nàng cả

27. Hoàng tử bỏ đi  vào năm bao nhiêu tuổi?
Khi đó chàng 29 tuổi

28. Nơi đầu tiên chàng đến là đâu?
Nơi đầu tiên hoàng tử đến là Thành Xá Vệ

29. Hoàng tử gặp ai ở đó?
Vua Bình-xa-vương và hầu cận của Ngài

30. Rồi hoàng tử đi đâu khi đó?
Hoàng tử đi đến những khu rừng nơi mà những bậc thầy thông thái, và trở thành đệ tử của họ

31. Những bậc thầy đó dạy gì?
Họ giảng dạy về sự cầu nguyện và hành hạ thân xác sẽ đưa đến chứng đạt chân lý

32.  Như thế hoàng tử đã tìm ra con đường giải thoát?
Không

33. Và sau đó Hoàng tử đã làm gì?
Chàng đi vào rừng sâu và thực hành khổ hạnh và ăn rất ít

34. Có ai theo chàng không?
Khi đó có năm vị đồng tu

 35. Hoàng tử đã tiếp tục thực hành điều đó bao lâu nữa?
Trong gần 6 năm cho đến khi hoàng tử cận kề cái chết bởi kiệt sức và hoại hủy thân thể

36. Hoàng tử đã làm gì khi đó?
Chàng đã quyết định ăn trở lại bình thường để giữ cho cơ thể phát triển cân bằng, và không còn tự hành hạ xác thân nữa. Bằng  việc tiếp tục cuộc tìm cầu Chân Lý Tối Hậu dẫn đến giải thoát bên trong tâm trí của chính chàng

37. Và hoàng tử đã thành công?
Vâng, Khi ngồi dưới cội Bồ Đề Ngài đã bừng sáng chân lý, nguyên nhân của sự đau khổ, sự sinh và cái chết, Con đường này có thể vượt qua tất cả những điều đó.

38. sự “Vượt  Qua“ đó có nghĩa là gì?
Nó có nghĩa là vượt lên trên tất cả và ra ngoài cả sự Sinh, Lão, Bệnh, Tử

39. Ngài gọi một người  Phật Tử được sinh bởi cha mẹ là Phật Tử ah?
Không hẳn thế, Một người Phật tử là người có niềm tin vững chắn nơi Đức Phật như là một bậc Thầy cao thượng và với những giáo thuyết Ngài đã dạy

40. Tổng quát lại lời dạy của một Vị Phật là gì? 
Chớ làm điều ác, gắng làm việc lành, giữ tâm ý trong sạch. Ấy, lời chư Phật dạy.” (Pháp Cú 179)

Monday, April 4, 2016

Một Số Câu Hỏi Về Đức Phật (Part 1)



1. Tôn Giáo của Ngài là gì?
Tôi là một Phật Tử

2. Đạo Phật là Gì?
Phật Giáo là tất cả những lời dạy của những Vị Phật

3. Đức Phật là gì?
Phật là một con người trí tuệ siêu việt, tỉnh thức, người đã tự giải thoát mình ra khỏi tất cả sự thiếu hiểu biết [Vô Minh]

4. Đức Phật là một Thượng Đế?
Không, Ngài là tuyệt hảo hơn cả Thượng Đế hay bất cứ người bình thường nào

5. Tại sao như thế?
Bởi do chính những nổ lực của bản thân và Ngài đã tự mình tìm ra Chân Lý Giải Thoát

6. Từ “Đức Phật” là một cái tên đúng phải không?
Không hẳn thế, Cụm từ “Đức Phật” chỉ là một cách gọi

7. Nghĩa của cụm từ “Đức Phật” là gì?
Nó có nghĩa là  “Một người Tỉnh Thức”, “Một chúng sanh đã giải thoát hoàn toàn”

8. Đã có nhiều Vị Phật ra đời phải không?
Vâng, có nhiều Vị Phật

9. Đức Phật còn tại thế khi nào?
Cách đây hơn 2500 năm, Ngài còn tại thế gian này, nhưng nay đã Nhập Diệt

10. Ngài được gọi là gì?
Ngài được gọi là Thích Ca Mâu Ni

11. Nghĩa là gì?
Nghĩa là một bậc Trí Tuệ của dòng tộc Thích Ca

12. Tên thật của Thích Ca Mâu Ni là gì?
Ngài Cồ Đàm Tất Đạt Đa

13. Cha Mẹ của Ngài là ai?
Là Vị vua Tịnh Phạn và Hoàng Hậu Maya

14. Vua Tịnh Phạn cai trị nước nào?
Ngài thống trị một bộ tộc ở Ấn Độ cổ được gọi là Tộc Thích Ca

15. Thái tử Tất Đạt Đa sinh ở đâu?
Nơi khu vườn Lâm Tỳ Ni

16. Vào khi nào?
Năm 623 trước công nguyên

17. Chuyện gì xảy ra khi thái tử ra đời?
Một vị Chiêm Tinh Gia đã tiên đoán Ngài sẽ là một Chuyển Luân Thánh Vương hoặc là một Vị Thầy Tuyệt Hảo sau này)

18. Nhà Khổ hạnh Asita đã nói gì về đứa bé?
Quả thật, sau này Đứa Bé sẽ trở thành một Vị Phật Tối Thượng, và sẽ vạch ra con đường giải thoát cho thế gian này

19. Tại sao Ngài Asita lại khóc sau khi nói điều đó?
Vì Ông sẽ không còn cơ hội (sống lâu hơn) để nhìn thấy sự huy hoàng của đứa bé sau này

20. Vua Tịnh Phạn có vui vẻ hay không khi nghe tin thế?
Không chút nào, Vị Vua không muốn đứa bé sau này trở thành một Vị Thầy Tu Tối Thắng, mà muốn đứa bé trở thành một vị vua để kế nghiệp

21. Vị Vua đã làm gì để ngăn cản hoàng tử sau này trở thành Vị Phật?
Ngài đã cho xây một hoàng cung lộng lẫy, và tránh cho hoàng tử nhìn thấy những cảnh sinh, già, bệnh, tử

22. Việc làm đó có thành công hay không?
Không thể xảy ra, khi hoàng tử trẻ dạo chơi trên con đường của thành phố, Hoàng tử đã gặp một người già, người bệnh, và một lễ tang

23. Hoàng tử đã nghĩ gì khi nhận thấy những điều đó?
Hoàng tử nghĩ: “Làm thể nào để cứu giúp tất cả con người ra khỏi những khổ đau đó?

24. Hoàng tử đã quyết định làm gì?
Ngài đã rời khỏi gia đình, ra đi để tìm con đường giải thoát khỏi nỗi khổ của Sanh – Lão – Bệnh – Tử



Translate english version from  internet.

Thursday, March 31, 2016

Chuyện Mẹ Của Trưởng Lão Sàriputta (Xá Lợi Phất) (Sàriputtatheramàtu)




Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Veluvana (Trúc Lâm).
Một hôm, các Tôn giả Sàriputta (Xá-lợi-phất), Mahà-Moggallàna (Ðại Mục-kiền-liên), Anurudha (A-na-luật-đà) và Kapppina (Kiếp-tân-na) đang trú tại một nơi trong khu rừng không xa thành Ràjagaha (Vương Xá).
Bấy giờ ở Benares (Ba-la-nại) có một Bà-la-môn đại phú gia, vốn là một giếng nước đầy đối với các Sa-môn, Bà-la-môn, đám dân nghèo, du sĩ, lữ khách, hành khất; vị ấy cúng dường bố thí thực phẩm, y phục, sàng tọa và nhiều vật dụng khác.
Vị ấy điều hành sinh hoạt của mình và bố thí tùy theo cơ hội phù hợp với các khách vãng lai, đủ mọi vật cần thiết cho tuyến đường trường. Vị ấy thường dặn bà vợ:
- Này bà, đừng quên việc bố thí này, bà phải chuyên tâm chăm lo bố thí như đã được định đoạt.
Bà vợ đồng ý, nhưng khi ông ra đi, bà liền cắt giảm tục lệ cúng dường chư Tăng. Hơn nữa, đối với đám lữ khách đến xin cư trú, bà chỉ vào túp lều xiêu vẹo bị bỏ phế đằng sau nhà và bảo họ:
- Hãy ở lại đó.
Khi đám du sĩ đến xin thực phẩm nước uống và các thức khác, bà thường buông lời nguyền rủa, kể ra cho từng người bất cứ vật gì ô uế đáng ghê tởm và bảo:
- Hãy ăn phân đi! Hãy uống nước tiểu đi! Hãy uống máu đi! Hãy ăn óc mẹ ngươi đi!
Do nghiệp lực trói buộc, lúc từ trần, bà tái sanh làm nữ ngạ quỷ chịu nỗi khốn cùng phù hợp với ác hạnh của bà. Khi nhớ lại đám quyến thuộc trong tiền kiếp, bà ước mong đến gần Tôn giả Sàriputta, và bà liền đến nơi ngài cư trú.
Các vị thổ thần trong nhà ngài không chấp nhận cho nữ quỷ vào. Do đó nữ quỷ nói như sau:
- Trong kiếp thứ năm kể về trước, ta là mẹ của Tôn giả Trưởng lão Sàriputta, hãy cho phép ta vào cửa để thăm ngài.
Vừa nghe vậy, chư thần liền cho phép nữ quỷ.
Khi nữ quỷ vào trong, nữ quỷ đứng cuối am thất và thấy ngài. Chợt trông thấy nữ quỷ, ngài động lòng từ bi liền hỏi nữ quỷ:
1. Trần truồng và xấu xí hình dung,
Gầy guộc và thân thể nổi gân,
Ngươi yếu ớt, xương sườn lộ rõ,
Người là ai, hiện đến đây chăng?
Nữ ngạ quỷ đáp:
2. Tôn giả, xưa ta mẹ của ngài,
Trong nhiều kiếp trước ở trên đời,
Tái sanh cảnh giới loài ma quỷ,
Ðói khát giày vò mãi chẳng thôi.

3. Những thứ gì nôn tháo, bọt mồm,
Nước mũi tuôn ra, nước dãi đờm,
Chất mỡ rỉ ra từ xác chết
Bị thiêu, máu sản phụ lâm bồn.

4. Máu chảy ra từ các vết thương,
Hoặc từ đầu, mũi bị cưa ngang,
Những gì cấu uế trong nam nữ,
Ðói lả, ta đều phải lấy ăn.

5. Máu mủ ta ăn của các loài,
Và luôn máu mủ của con người,
Không nơi cư trú, không nhà cửa,
Nằm chiếc giường đen nghĩa địa hoài.

6. Tôn giả, xin Tôn giả cúng dường,
Vì ta, ngài bố thí ban ân,
Ðể cho ta hưởng phần công đức,
Giải thoát ta từ máu, mủ, phân.
Ngày hôm sau, Tôn giả Sàriputta cùng ba vị Tỷ-kheo kia khất thực trong thành Vương Xá, đến tận cung Ðại vương Bimbisàra (Tần-bà-sa).
Nhà vua hỏi:
- Chư Tôn giả, tại sao chư vị đến đây?
Tôn giả Mahà-Moggallàna trình vua những việc đã xảy ra. Nhà vua phán:
- Chư Tôn giả, trẫm chấp thuận việc ấy.
Nhà vua bảo chư vị ra đi, triệu vị cận thần vào và truyền lệnh:
- Hãy xây trong khu rừng của thành này bốn am thất được cung cấp đủ bóng mát và nước chảy.
Khi các am thất đã được hoàn tất, nhà vua đem chúng cùng các vật dụng cần thiết trong cuộc sống cúng dường Trưởng lão Sàriputta. Sau đó vị ấy dâng tặng lễ vật này lên Tăng chúng khắp thế gian do đức Phật làm thượng thủ và hồi hướng công đức ấy đến nữ ngạ quỷ kia.
Nữ ngạ quỷ hưởng các lợi lạc này liền được tái sanh lên thiên giới. Bấy giờ đầy đủ mọi thứ cần dùng, một hôm Thiên nữ đến gần Tôn giả Mahà-Moggallàna và kể cho vị ấy nghe tất cả mọi chi tiết trong hai kiếp tái sinh làm ngạ quỷ và Thiên nữ.
Do đó, chuyện kể rằng:
7. Khi nghe mẹ đã nói gần xa,
Thương xót, ngài U-pa-tis-sa,
Triệu tập Mục-kiền-liên đại lực,
Cùng A-na-luật, Kiếp-tân-na.

8. Khi đã làm xong bốn cái am,
Ngài dâng lễ cúng tứ phương Tăng,
Am tranh, thực phẩm và hồi hướng
Công đức về cho mẹ hưởng phần.

9. Lập tức ngay sau lễ cúng dâng,
Phước phần hồi hướng đến vong nhân,
Ðây là kết quả từ công đức:
Thức uống, thức ăn, lẫn áo quần.

10. Xiêm y thanh lịch hiện dần ra,
Ðệ nhất Ba-la-nại lụa là,
Tô điểm ngọc vàng, nhiều kiểu áo,
Ðến gần Tôn giả Ko-li-ta.

Tôn giả Mahà-Moggallàna hỏi:

11. Hỡi nàng Thiên nữ, dáng siêu phàm
Ðang chiếu mười phương sáng rỡ ràng,
Thiên nữ, sắc nàng trông chói lọi,
Như vì sao cứu hộ trần gian.

12. Dung sắc này do nghiệp quả nào,
Phước phần nàng hưởng bởi vì sao,
Bất kỳ lạc thú nào yêu chuộng
Trong dạ, nàng đều thỏa ước ao?

13. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
Vẻ huy hoàng chiếu khắp mười phương?
Thiên nữ đáp:

14. Xá-lợi-phất Tôn giả cúng dường,
Nhờ đây, con hạnh phúc hân hoan,
Bốn phương con chẳng hề kinh hãi,
Tôn giả chính là bậc xót thương
Khắp cõi trần gian, thưa Giác giả,
Con về đây kính lễ tôn nhan.

Wednesday, March 30, 2016

Chết Có Thật Đáng Sợ Không?


                                           CHẾT CÓ THẬT ĐÁNG SỢ KHÔNG?

                              Hòa thượng K. S. Dhammananda - Thích Tâm Quang dịch Việt

Nguyên tác: "Is death really frightening?"


LỜI GIỚI THIỆU
Nếu quý vị vượt qua sự sợ hãi thì có thể vượt qua tất cả. Nếu quý vị không sợ chết thì sẽ đối diện với cái chết một cách bình tĩnh. Cuốn sách: "Chết Có Thật Đáng Sợ Không?" của Hòa-Thượng Tiến-Sĩ K. Sri Dhammananda do Thầy Thích Tâm Quang chuyển ngữ với lời văn trong sáng, nhẹ nhàng, giản dị, dễ hiểu và thu hút người đọc từ trang đầu đến trang cuối, sẽ đem lại cho quý độc giả những điều cần biết khi từ giã cõi đời này.
Quyển sách nhỏ này sẽ dẫn dắt người đọc đi một hành trình thật xa từ sự sống để chuẩn bị cho sự chết nhẹ nhàng, bình tĩnh không than van không khóc lóc. Chúng ta đến cuộc đời này một cách hồn nhiên thì chúng ta ra đi một cách bình thản. Người ỏ lại cũng phải đối diện với sự thật của cuộc đời rồi cũng sẽ lần lượt tới phiên mình. Biết về sự chết không phải để bi quan, nhưng để chúng ta làm điều thiện, tránh điều ác bởi vì sau khi chết chúng ta chỉ mang theo hành vi thiện ác mà chúng ta đã làm.
Chết không phải là hết mà chỉ là sự thay đổi; vậy thì tại sao chúng ta lại sợ chết? Chắc chắn quyển sách này sẽ đem lại cho quý độc giả một chút suy tư. Thần chết không từ chối một ai, không phân biệt tuổi tác, nam hay nữ, vậy thì tại sao chúng ta không chuẩn bị cuộc hành trình ra đi vĩnh viễn ngay từ bây giờ?
Đọc "Chết Có Thật Đáng Sợ Không?" và chuyển quyển sách này đến những người thân của chúng ta để cùng đọc, để cùng có thái độ bình thản lúc ra đi không sợ hãi, không lo âu, và người ỏ lại không đau đớn vì chết là sự hiển nhiên không ai tránh khỏi.
Chúng tôi chân thành cầu nguyện Chư Phật Mười Phương gia hộ cho Thầy Thích Tâm Quang mọi điều tốt đẹp, sức khỏe đầy đủ để tiếp tục sứ mạng hoằng pháp lợi sanh và hy vọng cuốn sách nhỏ này sẽ được hưởng ứng nồng nhiệt của các Phật Tử khắp nơi trên thế giới.
Mùa Xuân Năm Đinh Sửu 1997 
KIỀU MỸ DUYÊN

Link (Audio)https://app.box.com/s/is79e6hdtc8ykngxgc2u

Monday, March 28, 2016

Mi Tiên Vấn Đáp (Audio) (Part 2)

https://app.box.com/s/6qyxxhcs8jofpnmosnkp

Nhãn thức và tâm thức (Cakkhu vinnana - Mano vinnana) - Xúc (Phassalakkhana) -  Thọ (Vedanalakkhana) - Tưởng (Sannalakkhana) - Tác Ý (Cetanalakkhana) - Thức (Vinnanalakkhana) - Tầm (Vitakkalakkhana) - Tứ (hay Sát) (Vicaralakkhana)
Lại hỏi về "Chú tâm" (Manasikàra) - Những tâm sở đồng sanh - Về năm giác quan
Bất bình đẳng sai khác của chúng sanh là do nghiệp - Sớm ngăn ngừa điều ác
Lửa địa ngục - Nước dựa khí
Niết bàn - Ai sẽ đắc Niết bàn? - Làm sao biết Niết bàn là tối thượng lạc?
Có Phật không? - Phật là tối thượng tôn bảo? - Thấy Phật
Phật tối thắng như thế nào?
Khi chết ngũ uẩn diệt theo - Vedagù? - Nếu chết mà diệt hết thì thoát khỏi nghiệp
Nghiệp trú ở đâu? - Biết còn tái sanh? - Phật ở đâu?
Thương yêu cái thân?  - Bậc toàn giác biết tất cả? - Tại sao Phật không giống cha mẹ ngài?
Thực hành phạm hạnh (Brahmacàri) - Ai truyền cụ túc giới cho Đức Phật?
Nước mắt nào là thuốc? Nước mắt nào là độc dược? - Tham luyến và dứt tham luyến
Trí tuệ ở đâu? - Luân hồi (Samsara) - Trí nhớ - Ai cũng có trí nhớ - Có bao nhiêu loại trí nhớ?

https://app.box.com/s/5zkj3uetxec65ywbjmdi

Tương quan phước và tội? - Diệt khổ chưa đến?
Cõi Phạm Thiên bao xa?
Thời gian tái sanh - Sự liên hệ giữa kiếp này với kiếp kia? - Vào cửa nào để đầu thai?
Nhân sanh giác ngộ
Điều lành nhỏ, phước quả lớn; Điều ác lớn, tội báo nhỏ
Kẻ trí làm điều ác, tội báo nhỏ; Người ngu làm điều ác tội báo lớn
Bay bằng thân - Xương dài 100 do tuần - Biển
Ngưng hơi thở - Pháp xuất thế gian
Tuệ xuất thế gian nằm ở đâu? - Thức, tuệ và sanh mạng?
Thì giờ phải lẽ rồi
Phật và chư tăng, ai phước báu nhiều hơn?

https://app.box.com/s/3yb1qbuz0sqseyx80jfp

Lễ bái, cúng dường Xá lợi, Kim thân Phật, cây Bồ-đề... không có phước báu!
Đức Phật có toàn giác không?
Đức Thế Tôn có tâm Đại bi hay không?
Nghi vấn về sự Bố thí ba-la-mật
Bố thí hai mắt lại được thiên nhãn
Hoài nghi về sự thụ thai
Nghi về thời gian giáo pháp tồn tại
Đức Thế Tôn còn khổ chút ít nào không?
Đức thế tôn đã thật sự hoàn tất mọi phận sự chưa?
Tại sao Đức Thế Tôn không dùng "Tứ như ý túc" để duy trì thọ mạng?
Chánh pháp của Đức Thế Tôn có vẻ không được toàn hảo?
Tại sao có những câu hỏi mà Đức Thế Tôn làm thinh không trả lời?

Sunday, March 27, 2016

Mi Tiên Vấn Đáp (Audio) (Part 1)


https://app.box.com/s/gjkrywnlca6qygaw011d


TIỂU SỬ HÒA THƯỢNG GIỚI NGHIÊM (THITASÌLA MAHATHERA) 

- Lời nói đầu PHẦN DẪN NHẬP 
- Ngoại thuyết (Bàhirakathà)  
- Câu chuyện liên quan trong tiền kiếp (Pubbapa yoga)
 - Chuyện về ĐỨC VUA MI-LAN-ĐÀ 
- Chuyện về ĐẠI ĐỨC NA-TIÊN 
- Thấp thoáng bóng SƯ TỬ

https://app.box.com/s/9esk3q3k6mz2zjy01mj4


- Con số hạ lạp
- Đàm thoại như một Trí giả hay như một Vương giả?
- Thỉnh mời vào Hoàng cung
- Cứu cánh của Sa môn hạnh
- Tái sanh - Vô sanh
- Chú tâm
- Hành tướng của chú tâm và trí tuệ cùng sự khác nhau giữa chúng
- Tất cả Pháp lành lấy Giới làm sở y.


https://app.box.com/s/ajsflfuc4951hwum1dh8


- Hành tướng của Tín - Tấn - Niệm - Định - Tuệ
- Ngũ căn - riêng và chung
Tương quan thân trước và sau - Tái sanh và Vô sanh
Trí và Tuệ (nana-panna)
Bậc vô sanh có còn đau khổ không?
Cảm Thọ 
Cái gì dẫn dắt đi tái sanh?
Không nên hỏi lại câu đã hỏi
Danh sắc tương quan liên hệ
Thời gian và không còn thời gian - Nguyên nhân của thời gian - Thời gian tối sơ?
Có rồi không, Không rồi có! 
Pháp hành thì sao? - Tự nhiên sanh? - Tự ngã trong thân?

Wednesday, March 23, 2016

Thành tựu bốn Pháp

1. Thành tựu với bốn pháp, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục. Thế nào là bốn? 

Không suy tư, không thẩm sát,  tán thán người không xứng đáng được tán thán
không suy tư, không thẩm sát,  không tán thán người xứng đáng được tán thánh
không suy tư, không thẩm sát, tự cảm thấy tin tưởng đối với những chỗ không đáng tin tưởng
không suy tư, không thẩm sát, tự cảm thấy không tin tưởng đối với những chỗ đáng tin tưởng.

Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục.


2. Thành tựu với bốn pháp, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng được sanh lên cõi Trời.

Có suy tư, có thẩm sát, không tán thán người không xứng đáng được tán thán
Có suy tư, có thẩm sát, tán thán người xứng đáng được tán thán; 
Có suy tư, có thẩm sát, tự cảm thấy không tin tưởng đối với những chỗ không xứng đáng được tin tưởng;
Không suy tư, không thẩm sát, tự cảm thấy tin tưởng đối với những chỗ đáng tin tưởng.


Tuesday, March 22, 2016

Đê Tiện Và Bà La Môn

"Không ai sinh ra là đê tiện hay Bà La Môn (*). Con người trở nên đê tiện hay Bà La Môn chỉ vì hành vi của người ấy. Những kẻ dễ nổi nóng, những kẻ chứa chấp hận thù, những kẻ tội lỗi và vô ơn, những kẻ che dấu tội lỗi của mình, những kẻ giết thú vật, những kẻ không có tình thương người, những kẻ khủng bố và bọn cướp, phá hoại hàng xóm và thị thành, những kẻ vay nợ mà không trả nợ, những kẻ không săn sóc cha mẹ già, những kẻ chê bai Đức Phật và những người có đạo, những kẻ tâng bốc mình và hạ thấp người khác, những kẻ lúc nào cũng nổi nóng, những kẻ không biết xấu hổ hay sợ hãi, những kẻ thốt ra lời lừa đảo, những kẻ bất chính với vợ người khác, tuy giai cấp, thị tộc, gia đình, cộng đồng là cao, những kẻ ấy là những kẻ đê tiện". 
Buddha



(*)
 Bà-La-Môn: Là giai cấp cao nhất trong thời Ấn Độ thời đó, ngay đến cả những vị vua chúa cũng phải tin tưởng và nghe theo, nếu một lời nói của Bà La Môn nói ra, đó được xem là chân lý.