Thursday, March 31, 2016

Chuyện Mẹ Của Trưởng Lão Sàriputta (Xá Lợi Phất) (Sàriputtatheramàtu)




Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Veluvana (Trúc Lâm).
Một hôm, các Tôn giả Sàriputta (Xá-lợi-phất), Mahà-Moggallàna (Ðại Mục-kiền-liên), Anurudha (A-na-luật-đà) và Kapppina (Kiếp-tân-na) đang trú tại một nơi trong khu rừng không xa thành Ràjagaha (Vương Xá).
Bấy giờ ở Benares (Ba-la-nại) có một Bà-la-môn đại phú gia, vốn là một giếng nước đầy đối với các Sa-môn, Bà-la-môn, đám dân nghèo, du sĩ, lữ khách, hành khất; vị ấy cúng dường bố thí thực phẩm, y phục, sàng tọa và nhiều vật dụng khác.
Vị ấy điều hành sinh hoạt của mình và bố thí tùy theo cơ hội phù hợp với các khách vãng lai, đủ mọi vật cần thiết cho tuyến đường trường. Vị ấy thường dặn bà vợ:
- Này bà, đừng quên việc bố thí này, bà phải chuyên tâm chăm lo bố thí như đã được định đoạt.
Bà vợ đồng ý, nhưng khi ông ra đi, bà liền cắt giảm tục lệ cúng dường chư Tăng. Hơn nữa, đối với đám lữ khách đến xin cư trú, bà chỉ vào túp lều xiêu vẹo bị bỏ phế đằng sau nhà và bảo họ:
- Hãy ở lại đó.
Khi đám du sĩ đến xin thực phẩm nước uống và các thức khác, bà thường buông lời nguyền rủa, kể ra cho từng người bất cứ vật gì ô uế đáng ghê tởm và bảo:
- Hãy ăn phân đi! Hãy uống nước tiểu đi! Hãy uống máu đi! Hãy ăn óc mẹ ngươi đi!
Do nghiệp lực trói buộc, lúc từ trần, bà tái sanh làm nữ ngạ quỷ chịu nỗi khốn cùng phù hợp với ác hạnh của bà. Khi nhớ lại đám quyến thuộc trong tiền kiếp, bà ước mong đến gần Tôn giả Sàriputta, và bà liền đến nơi ngài cư trú.
Các vị thổ thần trong nhà ngài không chấp nhận cho nữ quỷ vào. Do đó nữ quỷ nói như sau:
- Trong kiếp thứ năm kể về trước, ta là mẹ của Tôn giả Trưởng lão Sàriputta, hãy cho phép ta vào cửa để thăm ngài.
Vừa nghe vậy, chư thần liền cho phép nữ quỷ.
Khi nữ quỷ vào trong, nữ quỷ đứng cuối am thất và thấy ngài. Chợt trông thấy nữ quỷ, ngài động lòng từ bi liền hỏi nữ quỷ:
1. Trần truồng và xấu xí hình dung,
Gầy guộc và thân thể nổi gân,
Ngươi yếu ớt, xương sườn lộ rõ,
Người là ai, hiện đến đây chăng?
Nữ ngạ quỷ đáp:
2. Tôn giả, xưa ta mẹ của ngài,
Trong nhiều kiếp trước ở trên đời,
Tái sanh cảnh giới loài ma quỷ,
Ðói khát giày vò mãi chẳng thôi.

3. Những thứ gì nôn tháo, bọt mồm,
Nước mũi tuôn ra, nước dãi đờm,
Chất mỡ rỉ ra từ xác chết
Bị thiêu, máu sản phụ lâm bồn.

4. Máu chảy ra từ các vết thương,
Hoặc từ đầu, mũi bị cưa ngang,
Những gì cấu uế trong nam nữ,
Ðói lả, ta đều phải lấy ăn.

5. Máu mủ ta ăn của các loài,
Và luôn máu mủ của con người,
Không nơi cư trú, không nhà cửa,
Nằm chiếc giường đen nghĩa địa hoài.

6. Tôn giả, xin Tôn giả cúng dường,
Vì ta, ngài bố thí ban ân,
Ðể cho ta hưởng phần công đức,
Giải thoát ta từ máu, mủ, phân.
Ngày hôm sau, Tôn giả Sàriputta cùng ba vị Tỷ-kheo kia khất thực trong thành Vương Xá, đến tận cung Ðại vương Bimbisàra (Tần-bà-sa).
Nhà vua hỏi:
- Chư Tôn giả, tại sao chư vị đến đây?
Tôn giả Mahà-Moggallàna trình vua những việc đã xảy ra. Nhà vua phán:
- Chư Tôn giả, trẫm chấp thuận việc ấy.
Nhà vua bảo chư vị ra đi, triệu vị cận thần vào và truyền lệnh:
- Hãy xây trong khu rừng của thành này bốn am thất được cung cấp đủ bóng mát và nước chảy.
Khi các am thất đã được hoàn tất, nhà vua đem chúng cùng các vật dụng cần thiết trong cuộc sống cúng dường Trưởng lão Sàriputta. Sau đó vị ấy dâng tặng lễ vật này lên Tăng chúng khắp thế gian do đức Phật làm thượng thủ và hồi hướng công đức ấy đến nữ ngạ quỷ kia.
Nữ ngạ quỷ hưởng các lợi lạc này liền được tái sanh lên thiên giới. Bấy giờ đầy đủ mọi thứ cần dùng, một hôm Thiên nữ đến gần Tôn giả Mahà-Moggallàna và kể cho vị ấy nghe tất cả mọi chi tiết trong hai kiếp tái sinh làm ngạ quỷ và Thiên nữ.
Do đó, chuyện kể rằng:
7. Khi nghe mẹ đã nói gần xa,
Thương xót, ngài U-pa-tis-sa,
Triệu tập Mục-kiền-liên đại lực,
Cùng A-na-luật, Kiếp-tân-na.

8. Khi đã làm xong bốn cái am,
Ngài dâng lễ cúng tứ phương Tăng,
Am tranh, thực phẩm và hồi hướng
Công đức về cho mẹ hưởng phần.

9. Lập tức ngay sau lễ cúng dâng,
Phước phần hồi hướng đến vong nhân,
Ðây là kết quả từ công đức:
Thức uống, thức ăn, lẫn áo quần.

10. Xiêm y thanh lịch hiện dần ra,
Ðệ nhất Ba-la-nại lụa là,
Tô điểm ngọc vàng, nhiều kiểu áo,
Ðến gần Tôn giả Ko-li-ta.

Tôn giả Mahà-Moggallàna hỏi:

11. Hỡi nàng Thiên nữ, dáng siêu phàm
Ðang chiếu mười phương sáng rỡ ràng,
Thiên nữ, sắc nàng trông chói lọi,
Như vì sao cứu hộ trần gian.

12. Dung sắc này do nghiệp quả nào,
Phước phần nàng hưởng bởi vì sao,
Bất kỳ lạc thú nào yêu chuộng
Trong dạ, nàng đều thỏa ước ao?

13. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
Vẻ huy hoàng chiếu khắp mười phương?
Thiên nữ đáp:

14. Xá-lợi-phất Tôn giả cúng dường,
Nhờ đây, con hạnh phúc hân hoan,
Bốn phương con chẳng hề kinh hãi,
Tôn giả chính là bậc xót thương
Khắp cõi trần gian, thưa Giác giả,
Con về đây kính lễ tôn nhan.

Wednesday, March 30, 2016

Chết Có Thật Đáng Sợ Không?


                                           CHẾT CÓ THẬT ĐÁNG SỢ KHÔNG?

                              Hòa thượng K. S. Dhammananda - Thích Tâm Quang dịch Việt

Nguyên tác: "Is death really frightening?"


LỜI GIỚI THIỆU
Nếu quý vị vượt qua sự sợ hãi thì có thể vượt qua tất cả. Nếu quý vị không sợ chết thì sẽ đối diện với cái chết một cách bình tĩnh. Cuốn sách: "Chết Có Thật Đáng Sợ Không?" của Hòa-Thượng Tiến-Sĩ K. Sri Dhammananda do Thầy Thích Tâm Quang chuyển ngữ với lời văn trong sáng, nhẹ nhàng, giản dị, dễ hiểu và thu hút người đọc từ trang đầu đến trang cuối, sẽ đem lại cho quý độc giả những điều cần biết khi từ giã cõi đời này.
Quyển sách nhỏ này sẽ dẫn dắt người đọc đi một hành trình thật xa từ sự sống để chuẩn bị cho sự chết nhẹ nhàng, bình tĩnh không than van không khóc lóc. Chúng ta đến cuộc đời này một cách hồn nhiên thì chúng ta ra đi một cách bình thản. Người ỏ lại cũng phải đối diện với sự thật của cuộc đời rồi cũng sẽ lần lượt tới phiên mình. Biết về sự chết không phải để bi quan, nhưng để chúng ta làm điều thiện, tránh điều ác bởi vì sau khi chết chúng ta chỉ mang theo hành vi thiện ác mà chúng ta đã làm.
Chết không phải là hết mà chỉ là sự thay đổi; vậy thì tại sao chúng ta lại sợ chết? Chắc chắn quyển sách này sẽ đem lại cho quý độc giả một chút suy tư. Thần chết không từ chối một ai, không phân biệt tuổi tác, nam hay nữ, vậy thì tại sao chúng ta không chuẩn bị cuộc hành trình ra đi vĩnh viễn ngay từ bây giờ?
Đọc "Chết Có Thật Đáng Sợ Không?" và chuyển quyển sách này đến những người thân của chúng ta để cùng đọc, để cùng có thái độ bình thản lúc ra đi không sợ hãi, không lo âu, và người ỏ lại không đau đớn vì chết là sự hiển nhiên không ai tránh khỏi.
Chúng tôi chân thành cầu nguyện Chư Phật Mười Phương gia hộ cho Thầy Thích Tâm Quang mọi điều tốt đẹp, sức khỏe đầy đủ để tiếp tục sứ mạng hoằng pháp lợi sanh và hy vọng cuốn sách nhỏ này sẽ được hưởng ứng nồng nhiệt của các Phật Tử khắp nơi trên thế giới.
Mùa Xuân Năm Đinh Sửu 1997 
KIỀU MỸ DUYÊN

Link (Audio)https://app.box.com/s/is79e6hdtc8ykngxgc2u

Monday, March 28, 2016

Mi Tiên Vấn Đáp (Audio) (Part 2)

https://app.box.com/s/6qyxxhcs8jofpnmosnkp

Nhãn thức và tâm thức (Cakkhu vinnana - Mano vinnana) - Xúc (Phassalakkhana) -  Thọ (Vedanalakkhana) - Tưởng (Sannalakkhana) - Tác Ý (Cetanalakkhana) - Thức (Vinnanalakkhana) - Tầm (Vitakkalakkhana) - Tứ (hay Sát) (Vicaralakkhana)
Lại hỏi về "Chú tâm" (Manasikàra) - Những tâm sở đồng sanh - Về năm giác quan
Bất bình đẳng sai khác của chúng sanh là do nghiệp - Sớm ngăn ngừa điều ác
Lửa địa ngục - Nước dựa khí
Niết bàn - Ai sẽ đắc Niết bàn? - Làm sao biết Niết bàn là tối thượng lạc?
Có Phật không? - Phật là tối thượng tôn bảo? - Thấy Phật
Phật tối thắng như thế nào?
Khi chết ngũ uẩn diệt theo - Vedagù? - Nếu chết mà diệt hết thì thoát khỏi nghiệp
Nghiệp trú ở đâu? - Biết còn tái sanh? - Phật ở đâu?
Thương yêu cái thân?  - Bậc toàn giác biết tất cả? - Tại sao Phật không giống cha mẹ ngài?
Thực hành phạm hạnh (Brahmacàri) - Ai truyền cụ túc giới cho Đức Phật?
Nước mắt nào là thuốc? Nước mắt nào là độc dược? - Tham luyến và dứt tham luyến
Trí tuệ ở đâu? - Luân hồi (Samsara) - Trí nhớ - Ai cũng có trí nhớ - Có bao nhiêu loại trí nhớ?

https://app.box.com/s/5zkj3uetxec65ywbjmdi

Tương quan phước và tội? - Diệt khổ chưa đến?
Cõi Phạm Thiên bao xa?
Thời gian tái sanh - Sự liên hệ giữa kiếp này với kiếp kia? - Vào cửa nào để đầu thai?
Nhân sanh giác ngộ
Điều lành nhỏ, phước quả lớn; Điều ác lớn, tội báo nhỏ
Kẻ trí làm điều ác, tội báo nhỏ; Người ngu làm điều ác tội báo lớn
Bay bằng thân - Xương dài 100 do tuần - Biển
Ngưng hơi thở - Pháp xuất thế gian
Tuệ xuất thế gian nằm ở đâu? - Thức, tuệ và sanh mạng?
Thì giờ phải lẽ rồi
Phật và chư tăng, ai phước báu nhiều hơn?

https://app.box.com/s/3yb1qbuz0sqseyx80jfp

Lễ bái, cúng dường Xá lợi, Kim thân Phật, cây Bồ-đề... không có phước báu!
Đức Phật có toàn giác không?
Đức Thế Tôn có tâm Đại bi hay không?
Nghi vấn về sự Bố thí ba-la-mật
Bố thí hai mắt lại được thiên nhãn
Hoài nghi về sự thụ thai
Nghi về thời gian giáo pháp tồn tại
Đức Thế Tôn còn khổ chút ít nào không?
Đức thế tôn đã thật sự hoàn tất mọi phận sự chưa?
Tại sao Đức Thế Tôn không dùng "Tứ như ý túc" để duy trì thọ mạng?
Chánh pháp của Đức Thế Tôn có vẻ không được toàn hảo?
Tại sao có những câu hỏi mà Đức Thế Tôn làm thinh không trả lời?

Sunday, March 27, 2016

Mi Tiên Vấn Đáp (Audio) (Part 1)


https://app.box.com/s/gjkrywnlca6qygaw011d


TIỂU SỬ HÒA THƯỢNG GIỚI NGHIÊM (THITASÌLA MAHATHERA) 

- Lời nói đầu PHẦN DẪN NHẬP 
- Ngoại thuyết (Bàhirakathà)  
- Câu chuyện liên quan trong tiền kiếp (Pubbapa yoga)
 - Chuyện về ĐỨC VUA MI-LAN-ĐÀ 
- Chuyện về ĐẠI ĐỨC NA-TIÊN 
- Thấp thoáng bóng SƯ TỬ

https://app.box.com/s/9esk3q3k6mz2zjy01mj4


- Con số hạ lạp
- Đàm thoại như một Trí giả hay như một Vương giả?
- Thỉnh mời vào Hoàng cung
- Cứu cánh của Sa môn hạnh
- Tái sanh - Vô sanh
- Chú tâm
- Hành tướng của chú tâm và trí tuệ cùng sự khác nhau giữa chúng
- Tất cả Pháp lành lấy Giới làm sở y.


https://app.box.com/s/ajsflfuc4951hwum1dh8


- Hành tướng của Tín - Tấn - Niệm - Định - Tuệ
- Ngũ căn - riêng và chung
Tương quan thân trước và sau - Tái sanh và Vô sanh
Trí và Tuệ (nana-panna)
Bậc vô sanh có còn đau khổ không?
Cảm Thọ 
Cái gì dẫn dắt đi tái sanh?
Không nên hỏi lại câu đã hỏi
Danh sắc tương quan liên hệ
Thời gian và không còn thời gian - Nguyên nhân của thời gian - Thời gian tối sơ?
Có rồi không, Không rồi có! 
Pháp hành thì sao? - Tự nhiên sanh? - Tự ngã trong thân?

Wednesday, March 23, 2016

Thành tựu bốn Pháp

1. Thành tựu với bốn pháp, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục. Thế nào là bốn? 

Không suy tư, không thẩm sát,  tán thán người không xứng đáng được tán thán
không suy tư, không thẩm sát,  không tán thán người xứng đáng được tán thánh
không suy tư, không thẩm sát, tự cảm thấy tin tưởng đối với những chỗ không đáng tin tưởng
không suy tư, không thẩm sát, tự cảm thấy không tin tưởng đối với những chỗ đáng tin tưởng.

Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục.


2. Thành tựu với bốn pháp, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng được sanh lên cõi Trời.

Có suy tư, có thẩm sát, không tán thán người không xứng đáng được tán thán
Có suy tư, có thẩm sát, tán thán người xứng đáng được tán thán; 
Có suy tư, có thẩm sát, tự cảm thấy không tin tưởng đối với những chỗ không xứng đáng được tin tưởng;
Không suy tư, không thẩm sát, tự cảm thấy tin tưởng đối với những chỗ đáng tin tưởng.


Tuesday, March 22, 2016

Đê Tiện Và Bà La Môn

"Không ai sinh ra là đê tiện hay Bà La Môn (*). Con người trở nên đê tiện hay Bà La Môn chỉ vì hành vi của người ấy. Những kẻ dễ nổi nóng, những kẻ chứa chấp hận thù, những kẻ tội lỗi và vô ơn, những kẻ che dấu tội lỗi của mình, những kẻ giết thú vật, những kẻ không có tình thương người, những kẻ khủng bố và bọn cướp, phá hoại hàng xóm và thị thành, những kẻ vay nợ mà không trả nợ, những kẻ không săn sóc cha mẹ già, những kẻ chê bai Đức Phật và những người có đạo, những kẻ tâng bốc mình và hạ thấp người khác, những kẻ lúc nào cũng nổi nóng, những kẻ không biết xấu hổ hay sợ hãi, những kẻ thốt ra lời lừa đảo, những kẻ bất chính với vợ người khác, tuy giai cấp, thị tộc, gia đình, cộng đồng là cao, những kẻ ấy là những kẻ đê tiện". 
Buddha



(*)
 Bà-La-Môn: Là giai cấp cao nhất trong thời Ấn Độ thời đó, ngay đến cả những vị vua chúa cũng phải tin tưởng và nghe theo, nếu một lời nói của Bà La Môn nói ra, đó được xem là chân lý.